Thứ 2, 30/06/2025, 16:56[GMT+7]

Chuyện hai cha con ông Nghè, ông Bảng Diên Hà với đồng đất Hưng Yên

Thứ 2, 30/06/2025 | 09:33:28
457 lượt xem
Hai miền quê Thái Bình và Hưng Yên cùng chung dòng sông Luộc. Xưa và nay, các thế hệ cư dân ở hai triền sông này thường có mối giao thoa về hôn nhân, huyết thống. Kỳ thú thay, hai cha con Tiến sĩ Lê Trọng Thứ (1694 - 1782) và Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1784) ở làng Diên Hà (Thái Bình) vốn được lịch sử tôn vinh là “hổ phụ sinh hổ tử” của nước Nam thì Hưng Yên là quê mẹ của “hổ phụ” và là quê vợ của “hổ tử”.

Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Ðôn tại xã Độc Lập, huyện Hưng Hà.

Lê Trọng Thứ xuất thân từ một gia đình thế gia lệnh tộc thuộc dòng họ Lý, có tổ bốn đời từng làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư. Tổ ba đời là Phúc Thiện công được hưởng tập ấm với hàm Công bộ Thượng thư về làm quan ở huyện Diên Hà. Sau chưa rõ vì một nguyên nhân nào đó phải đi tránh nạn mới đổi ra họ Lê để về dạy học ở làng Diên Hà, rồi định cư ở đó. Thân phụ Lê Trọng Thứ là Phúc Lý công vốn học rộng, biết nhiều nhưng vì tránh nạn nên phải xuống làng Vị Dương (Thái Thụy) để dạy học. Sau mấy năm dạy học ở Vị Dương, Phúc Lý công trở về làng Diên Hà sinh sống và dạy dỗ con em trong vùng rồi sinh ra Lê Trọng Thứ. Đến đời Lê Trọng Thứ, phần vì lệ hưởng tập ấm đã quá ba đời, phần vì gia cảnh ngày thêm một sa sút nên thuở nhỏ phải học hành trong điều kiện khó khăn thiếu thốn.

Năm 18 tuổi, Lê Trọng Thứ đỗ Sinh đồ (Tú tài). Năm sau, bố mất phải ở nhà chịu tang, đến năm 27 tuổi mới đi thi đỗ Cử nhân. Vào những năm đó, gia cảnh Lê Trọng Thứ càng thêm sa cơ lỡ vận. Tuy bố mất, nhưng người mẹ vẫn tảo tần, chắt chiu để cho Trọng Thứ tiếp tục “nấu sử sôi kinh” dưới cửa thầy là Tiến sĩ Hoàng Công Bảo ở làng Thổ Hoàng, một làng khoa bảng nổi tiếng của Hưng Yên. Họ Hoàng vốn là một trong những họ hiển đạt khoa danh vào bậc nhất ở làng Thổ Hoàng với 5 người đỗ đại khoa. Người đỗ khai khoa của họ này là Hoàng Tuân đỗ Bảng nhãn năm 1553. Hai người cháu của Hoàng Tuân là Hoàng Chân Nam đỗ Tiến sĩ 1571, Hoàng Công Chí đỗ Tiến sĩ năm 1670. Hoàng Công Bảo là con của Hoàng Công Chí, đỗ Tiến sĩ năm 1710. Hoàng Bình Chính là cháu nội Hoàng Công Bảo, đỗ Tiến sĩ năm 1775.

Sau mấy tháng rèn cặp, thấy Trọng Thứ là người thông minh, có đức hạnh, Hoàng Công Bảo đã giới thiệu lên Thăng Long theo học thầy Vũ Thạnh ở Quốc Tử Giám.

Những năm tháng theo học tại trường Giám đã tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời và sự nghiệp của Lê Trọng Thứ. Rất có thể là khi tìm cách giới thiệu Trọng Thứ vào học tại Quốc Tử Giám thì Hoàng Công Bảo đã nói khá rõ về con người này với anh rể của mình là quan Hoằng Phái hầu Trương Minh Lượng (1636 - ?), người làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (Hà Nam), một học quan có đức cao vọng trọng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), làm quan đến chức Tự khanh. Vợ ông quê ở làng Thổ Hoàng (Hưng Yên), là chị ruột của Tiến sĩ Hoàng Công Bảo. Ở các kỳ bình văn tại Giám, vị học quan họ Trương có tâm hồn khoáng đạt thường chú ý đến chàng nho sinh họ Lê ở Diên Hà rồi mang lòng mến mộ. Cũng có thể do có thêm sự tác động của người em vợ là Hoàng Công Bảo, từng đã có thời gian dạy dỗ, am hiểu và quý mến tài trí, phẩm hạnh của Trọng Thứ nên không cần tính toán đến chuyện môn đăng hộ đối, quan Hoằng Phái hầu đã cho tìm cậu hàn nho Diên Hà đến để hứa gả người con gái thứ ba của mình là Trương Thị Ích cho, trong khi Trọng Thứ vẫn đang miệt mài đèn sách để chuẩn bị cho kỳ thi đại khoa sắp đến.

Lịch sử Việt Nam đã có sự trùng lặp ngẫu nhiên, lý thú: vào thời Trần, quan Đại Tư đồ (Tể tướng) Trần Nguyên Đán đã gả con gái của mình là Trần Thị Thái cho chàng hàn nho vốn không phải xuất thân từ dòng dõi danh gia vọng tộc là Nguyễn Ứng Long. Liền sau đó, vào khoa thi Thái học sinh năm Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 đời Trần Duệ Tông (1374), Ứng Long đã thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Khi ra làm quan đã được đổi tên là Nguyễn Phi Khanh. Mấy năm sau đó, Nguyễn Phi Khanh cùng Trần Thị Thái sinh ra thiên tài Nguyễn Trãi (1380 - 1442). Tròn 350 năm sau, quan Hoằng Phái hầu Trương Minh Lượng tìm gả con gái của mình là Trương Thị Ích cho chàng Cống sinh nhà nghèo là Lê Trọng Thứ và chàng đã trở thành ông Nghè tân khoa năm Giáp Thìn (1724). Hai năm sau khi thi đỗ, Lê Trọng Thứ đã cùng Trương Thị Ích sinh ra thiên tài Lê Quý Đôn (1726 - 1784).

Như vậy, Lê Quý Đôn được sinh ra và trưởng thành từ mạch nguồn truyền thống văn hiến của cả hai bên nội ngoại và tấm biển “Văn Hiến Truyền Gia” của triều đình ban tặng cho dòng họ, hiện là bức hoành phi treo tại ngôi từ đường họ Lê ở xã Độc Lập (Thái Bình) thờ hai danh nhân cha con Lê Trọng Thứ và Lê Quý Đôn cần được hiểu là “văn hiến” được “truyền” từ trước đời Lê Quý Đôn, chứ không phải là từ Lê Quý Đôn trở về sau.

Theo gia phả và các nguồn sử liệu thì Lê Quý Đôn cất tiếng khóc chào đời tại tư dinh của ông ngoại là quan Hoằng Phái hầu Trương Minh Lượng ở kinh thành Thăng Long. Những năm tháng đầu đời, thần đồng Lê Quý Đôn được mẹ và ông ngoại dạy cho đọc chữ “hữu”, chữ “vô” khi đang tập nói. Vì biến cố do cha bị bãi chức, Lê Quý Đôn lên 6 tuổi phải theo cha mẹ về làng Diên Hà sinh sống.

Năm Lê Quý Đôn 14 tuổi, Trịnh Doanh lên ngôi chúa, nghe theo lời can gián của một số trung thần đã ra sắc chỉ khôi phục chức tước cho Lê Trọng Thứ. Lê Quý Đôn lại cùng gia đình theo cha trở lại Thăng Long.

Để cho con tiếp tục học hành chuẩn bị cho kỳ thi Hương, Lê Trọng Thứ đã gửi Lê Quý Đôn theo học Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718) và là chú ruột Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, quê làng Liêu Xá, huyện Đường Hào (Hưng Yên). Liêu Xá là một làng khoa bảng và dòng họ Lê ở làng này truyền đời hiển đạt khoa danh.

Năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743), Lê Quý Đôn 17 tuổi dự kỳ thi Hương và đỗ Giải nguyên (đỗ đầu xứ). Có giai thoại truyền rằng, sau khi thi đỗ được ít ngày, Lê Quý Đôn và một số tân khoa là đồng môn dưới cửa thầy Lê Hữu Kiều đã kéo nhau về làng Liêu Xá để thăm gia đình thầy. Lê Hữu Kiều đã cùng đi với môn sinh trong chuyến về quê ấy. Lê Quý Đôn được chọn làm người cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn khách. Đến đầu làng Liêu Xá gặp chiếc cầu đá bên cầu có tấm bia khắc một bài thơ thất ngôn bát cú. Khi qua cầu, Lê Quý Đôn và các bạn đồng môn ai cũng để ý đọc thoáng bài thơ một lượt.

Vào đến nhà, Lê Hữu Kiều mới hỏi các vị tân khoa xem có ai nhớ bài thơ trên tấm bia ở bên cầu đá không? Các ông tân khoa lưỡng lự nhìn nhau, mỗi người nhớ lõm bõm được vài chữ, đôi dòng đầu bài thơ. Khi hỏi đến Lê Quý Đôn thì chàng đã thản nhiên đọc toàn bộ bài thơ một cách lưu loát. Có người đã đoán định đó là lần kiểm tra cuối của Lê Hữu Kiều với Lê Quý Đôn để đi đến quyết định gả cô con gái thứ ba của mình cho chàng cống Diên Hà. Chưa rõ thực hư của giai thoại này thế nào, nhưng hẳn là vì mến mộ tài năng của người học trò xuất sắc của mình nên Lê Hữu Kiều đã gả con gái của mình là Lê Thị Trang cho Lê Quý Đôn sau ngày thi đỗ ít lâu.

Sau kỳ thi Hương, Lê Quý Đôn về quê nhà ở làng Diên Hà viết sách và dạy học. Có lẽ, đó là những năm tháng ông có điều kiện về thời gian hơn để thường qua lại quê mẹ ở Thổ Hoàng và quê vợ ở Liêu Xá.

Năm Nhâm Thân (1752), Lê Quý Đôn đi thi và đỗ đầu cả hai kỳ thi Hội và thi Đình với danh xưng Tam nguyên Bảng nhãn. Khoa thi này được coi là đặc biệt bởi vì chỉ lấy đỗ có 6 người, là một khoa thi lấy ít người đỗ nhất ở thời Lê - Trịnh. Đặc biệt hơn, trong số 6 người đỗ khoa thi này có tới 4 người quê ở Thái Bình, được xếp theo thứ tự đỗ từ cao xuống thấp là Bảng nhãn Lê Quý Đôn, Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục, Tiến sĩ Nghiêm Vũ Đằng và Tiến sĩ Nguyễn Xuân Huyên. Có thể coi đó là một trong những minh chứng về truyền thống khoa bảng nổi trội của miền quê Thái Bình.

Trải đã ba thế kỷ, các mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống trong tam giác khoa bảng Diên Hà - Thổ Hoàng - Liêu Xá tiếp tục được đắp bồi thêm. Lê Trọng Thứ đã cho con trai của mình là Lê Quý Thái đến làng Thổ Hoàng lập nghiệp và lập ra xóm Vườn Hồng. Một chi phái họ Lê Diên Hà hình thành và sinh sôi ở đó. Mối quan hệ gắn bó máu thịt của ba dòng họ khoa bảng Lê Diên Hà - Hoàng Thổ Hoàng - Lê Liêu Xá đã tạo thêm sức mạnh nội sinh thúc đẩy học phong của Thái Bình - Hưng Yên vốn đã hưng thịnh lại ngày thêm hưng thịnh.

Nguyễn Thanh
Vũ Quý, Kiến Xương

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày